Tổn thương cơ do thể dục (EIMD) và đau cơ khởi phát muộn (DOMS) thường xảy ra sau tập luyện. Đó là kết quả của tập luyện kéo dài và quá tải. Và việc này dẫn đến tổn thương vi mô sợi cơ và tăng căng thẳng oxy hóa. Đau nhức và mất chức năng cơ thường xảy ra trong giai đoạn phục hồi sau tập luyện.

Khả năng phục hồi:

Phục hồi cơ diễn ra bằng cách điều chỉnh hoạt động viêm và kích hoạt tế bào gốc cơ. Tế bào gốc cơ còn được gọi là tế bào vệ tinh. Mục đích nhằm sửa chữa và tái tạo tế bào trong các sợi cơ bị tổn thương.

Việc sửa chữa cơ hoàn toàn có thể phụ thuộc vào việc nghỉ ngơi, bổ sung dinh dưỡng và vật lý trị liệu. EIMD ở các vận động viên chuyên nghiệp gây ra DMOS nhẹ hoặc trung bình. Thường chỉ ảnh hưởng đến chức năng cơ trong vòng 2 đến 3 ngày sau khi tập luyện. Nhưng với người bình thường có thể gặp phải cả DOMS nghiêm trọng và mất chức năng cơ do EIMD. Trong những trường hợp này, cần giai đoạn phục hồi dài hơn để phục hồi cơ hoàn toàn.

Các liệu pháp phục hồi:

Ngoài cường độ căng thẳng cơ học ban đầu, ảnh hưởng của stress oxy hóa và phản ứng viêm có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc sửa chữa cơ. Việc bổ sung chất chống oxy hóa đã được chứng minh làm giảm mức độ stress oxy hóa và tổn thương cơ. Việc điều chỉnh stress oxy hóa trong hoặc sau khi tập luyện có liên quan đến mức độ phản ứng viêm. Phản ứng viêm là một quá trình quan trọng trong việc thích ứng sinh lý sau khi tập luyện. Để sửa chữa và tái tạo cơ, phản ứng viêm sẽ kích hoạt tín hiệu tế bào để tăng sinh tế bào vệ tinh và thu hút các tế bào miễn dịch để loại bỏ các mảnh vụn sợi cơ…

Trong giai đoạn phục hồi muộn, các cytokine quan trọng là các cytokine chống viêm. Chẳng hạn như IL-4 và IL-10. Chúng chịu trách nhiệm vô hiệu hóa bạch cầu trung tính hoạt động và đại thực bào M1 [12,14]. Mặc dù phản ứng tiền viêm có lợi cho việc kích hoạt quá trình tạo cơ. Nhưng sự tiết ra ở mức độ cao kéo dài của các cytokine tiền viêm có thể gây ra tác động tiêu cực đến phản ứng tổng hợp tế bào cơ và sự biệt hóa cơ.

Nghiên cứu:

Nhân sâm Mỹ (Panax quinquefolium, AG) là một loại thuốc thảo dược phổ biến. AG đã được báo cáo là có nhiều đặc tính dược lý trong y học cổ truyền Trung Quốc. AG thể hiện các hoạt động dược lý để cải thiện rối loạn chức năng nhận thức, các bất thường của hệ thống miễn dịch, bệnh tim mạch, tiểu đường và ung thư. Ginsenosides là chất phytochemical quan trọng và là thành phần hoạt tính sinh học chính của rễ nhân sâm. AG khác với nhân sâm châu Á (nhân sâm Panax) ở thành phần ginsenosides. AG có hàm lượng tổng ginsenosides và Rb1 và Re dồi dào cao hơn so với nhân sâm Châu Á.

Trong một nghiên cứu chéo ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, việc bổ sung AG trong 28 ngày không làm thay đổi độ bền khi chạy. Mà làm giảm hoạt động creatine kinase (CK) trong huyết tương do tập luyện chạy bộ mệt nhọc gây ra. Hơn nữa, ginsenosides Rb1 và Re thể hiện hoạt động chống oxy hóa. Việc này đã được chứng minh trong cả nghiên cứu in-vitro và in-vivo.

Một nghiên khác được thực hiện và công bố trên trang Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ tháng 12/2021. Phương pháp thử nghiệm là chạy xuống dốc (DH). Mục đích là đánh giá tác động của việc bổ sung AG trong thời gian ngắn đối với tổn thương cơ, stress oxy hóa và tình trạng viêm cấp tính sau khi chạy DH. Với giả thuyết rằng việc bổ sung AG sẽ làm giảm EIMD, đau nhức cơ và peroxid hóa lipid, đồng thời cũng sẽ cải thiện các phản ứng gây viêm và thúc đẩy phản ứng chống viêm sau khi chạy DH.

Kết quả:

Kết quả cho thấy việc bổ sung AG vào lúc 48 và 72 giờ sau khi chạy DH đã loại bỏ được sự tăng sinh chất gây tổn thương cơ (creatine kinase). Hơn nữa, kết quả còn thấy sự suy giảm nồng độ IL-4 trong huyết tương giữa việc bổ sung AG trước và 72 giờ sau khi chạy DH.

Kết luận:

Kết quả cho thấy rằng việc bổ sung AG trong thời gian ngắn làm giảm bớt EIMD lệch tâm. AG giúp làm giảm quá trình peroxid hóa lipid và thúc đẩy quá trình thích ứng với tình trạng viêm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *